• Thời sự - Chính trị
    • Xây dựng Đảng
  • Kinh tế
  • Xã hội
  • Văn hóa - Thể thao - Du lịch
  • Pháp luật & Đời sống
    • An toàn giao thông
  • Đất & Người Kon Tum
  • Tòa soạn & Bạn đọc
    • Nhịp cầu bạn đọc
Lễ tưởng niệm 55 năm ngày các chiến sĩ Trung đoàn 209 hy sinh tại Chư Tan Kra    Chủ tịch UBND tỉnh Lê Ngọc Tuấn gặp gỡ, đối thoại với thanh niên    UBND tỉnh và Tập đoàn Viettel ký kết Thỏa thuận hợp tác chuyển đổi số    Phó Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Hòa thăm, tặng hoa Tỉnh đoàn    Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình tặng cờ Tổ quốc tại huyện Ngọc Hồi   

Ghi chép - Phóng sự

Gặp “Người tù Đăk Glei” cuối cùng còn lại

10/07/2017 19:21

Mặc dù đã 102 tuổi, nhưng ông Nguyễn Trọng Vĩnh hãy còn dáng dấp quắc thước, minh mẫn. Ông tiếp chuyện thân thiện, cởi mở, pha chút hài hước, dí dỏm của người thông minh, lão thực.

Nguyễn Trọng Vĩnh là một tù “chính trị phạm”, nói như nhà báo Đoàn Bá Từ (cũng là một tù chính trị cùng thời) là “nhân vật Đăk Glei và Đăk Tô” tại Đăk Glei và Đăk Tô từ 1940 đến 1945. Ông là người Lê Văn Hiến nhiều lần nhắc đến trong hồi ký “Trở lại Kon Tum”: “Chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất (trong tù – NV)… Một đội “Lao động xung phong” được thành lập…  gồm: Lê Nhu (thường gọi “thợ cả”), Chu Huy Mân, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Trọng Vĩnh…”; hoặc: “Trong trại chúng tôi ra hai tờ báo… Tòa soạn gồm có: Hà Thế Hạnh, Lê Nhu, Thái Văn Tam, Đoàn Bá Từ, Nguyễn Trọng Vĩnh…”.

Mang niềm tôn kính (cộng chút yếu tố tò mò) đối với những nhân vật đã từng đặt dấu chân lưu đày trên đất Kon Tum ấy, mãi đến gần đây tôi mới có dịp cùng một tiến sĩ sử học trẻ (cũng là người Kon Tum, đang giảng dạy Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội) tìm thăm thiếu tướng - đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh - người tù Đăk Glei cuối cùng còn sống đến nay, tại nhà riêng của ông ở Hà Nội.

Mặc dù đã 102 tuổi, nhưng ông Vĩnh hãy còn dáng dấp quắc thước, minh mẫn. Ông tiếp chuyện thân thiện, cởi mở, pha chút hài hước, dí dỏm của người thông minh, lão thực.

Nghe chúng tôi “khen” rằng một năm nữa thôi ông sẽ… “bằng” bác Giáp, ông sôi nổi nói ngay: Tôi không dám tranh hơn với bác Giáp bất cứ điều gì, nhưng cái này thì tôi “hơn” bác ấy! Bởi bác Giáp mất năm 103 tuổi, trong đó có 3 năm nằm viện; còn tôi 102 tuổi nhưng còn “nằm nhà”, chưa nằm viện!

Chúng tôi cùng cười vui vẻ, và thế là không khí cuộc gặp gỡ một ông già, lại là một ông tướng, một ông đại sứ, không còn khoảng cách nữa.

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh (bên phải) và tác giả

 

Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1914 tại làng Thổ Phụ, tổng Cao Mật, nay là xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, bên cửa Tây thành Nhà Hồ. Nhà nghèo, cha phải bán ông cho một gia đình Hà Nội. Sau đó ông làm thợ sắp chữ nhà in, rồi tham gia biểu tình ở Hà Nội, bị bắt, bị trục xuất về quê nhà.

Tết Đoan Ngọ năm 1940, ông bị bắt, bị đưa vào an trí ở Đăk Glei - Kon Tum. Tháng 3/1945 được thả về, ông tham gia Cách mạng Tháng Tám cướp chính quyền tại quê nhà. Từ đó trải qua các chức vụ: Bí thư tỉnh Phúc Yên, Bí thư tỉnh Thái Bình, Chính ủy Khu I, Cục trưởng Cục tổ chức Quân ủy Trung ương, Chính ủy Khu IV, được phong hàm Thiếu tướng năm 1959, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội khóa III, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh Thanh Hóa, Trưởng đoàn chuyên gia giúp nước bạn Lào, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Trung quốc 13 năm (1974-1987); hưu trí năm 1990.

Khi hỏi những kỷ niệm “thời Đăk Glei”, dù không còn nhớ được nhiều, nhưng như được khơi gợi lại vùng ký ức khó quên, ông chậm rãi kể chuyện mà như đang tâm sự.

Ngoài những hoạt động như Lê Văn Hiến viết, ông còn nhiều kỷ niệm khác. Ông có vẻ tâm đắc với chuyện đã được ông viết lại trong hồi ký “Kể lại cuộc đời”: “Một lần… chúng tôi bố trí cho mấy anh Nguyễn Duy Trinh, Chu Huy Mân, Hà Thế Hạnh, Huỳnh Ngọc Huệ trốn trại… Khi họ ra khỏi trại, tôi bố trí một số hình nộm người để trên giường đắp chăn trùm đầu giả sốt rét. Lính vào kiểm tra thấy đủ “đầu người” rồi là thôi. Chừng mấy hôm sau, ước là anh em đã đi được xa rồi, anh Lê Văn Hiến mới “phát giác” việc tù trốn và đi báo cáo với quan đồn…”. 

Cao hứng theo mạch “ký ức Đăk Glei”, ông đọc cho nghe bài thơ “Nỗi lòng khuê phụ” mà ông đã ngẫu hứng viết tại Đăk Glei năm 1941. Bài thơ thác lời người phụ nữ đợi chờ chồng để nhắn gửi mọi người lòng trung trinh ái quốc của kẻ trong tù: “Chúa xuân năm ngoái đã về/ Mà người năm ngoái đã đi, đi hoài/ Nỗi lòng thổn thức hôm, mai/ Biết nhờ ai gửi cho người phương xa/ Nhắn trăng – trăng bạc hững hờ/ Gửi theo chiều gió – gió đưa vô tình/ Mơ màng gửi cánh chim xanh/ Chim bay xa tít đầu ghềnh chân mây/ Nỗi lòng ai biết chăng ai…”.

Sau này ông còn làm nhiều thơ, trong một bài, ông cho thời gian tù đày ấy là một trường học quý giá cho đời mình sau đó: “Vừa về, nó lại bắt/ Đày lên tận Đăk Tô/ Nơi rừng thiêng nước độc/ Sốt rét lách sưng to/ Năm năm “trường tù” học/ Biết bao thứ ở đời/ Để giàu thêm kiến thức/ Chuẩn bị cho ngày mai…”.

Ông vui vẻ ký tặng chúng tôi cuốn hồi ký “Kể lại cuộc đời”. Tập sách kể lại những mốc chính trong đời: thời hoạt động cách mạng và tù đày, thời trong quân ngũ, thời chuyển sang công tác dân chính, thời làm trưởng đoàn cố vấn giúp nước bạn Lào, đặc biệt là thời làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Trung Quốc, đúng thời điểm quan hệ giữa hai nước căng thẳng nhất. Ở đề mục này, đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh đã cho người đọc thấy rõ những dã tâm của anh bạn láng giềng “to người hẹp bụng” với nhiều chi tiết rất lí thú mà một “sứ thần” phải đối mặt.

Như đã nói, Nguyễn Trọng Vĩnh luôn thể hiện sự  hài hước, dí dỏm vốn dĩ là tố chất của người thông minh, tự tại. Do vậy người đọc rất thích thú những câu thơ mang nội hàm tự trào (tự cười mình) của ông với những ý tưởng và ngôn từ thú vị, thể hiện một “tài thơ”: “Tưởng văn dốt vũ dát/ Ngờ đâu cũng nên trò/ Trải Bí thư ba tỉnh/ Chính ủy hai quân khu/ Rồi cố vấn cố vác/ Lại đại sứ đại sành/ Cũng thành tướng thành tá…/ Được thế cũng là vinh/ Chức không cao không thấp/ Không giàu cũng chả nghèo/ Biết đủ thì thường đủ…/ Nào quản mọi chông gai/ Địa vị không cầu lụy/ Quyền lợi chẳng van nài…/ Nhắm mắt, lòng thanh thản…”.

Tính cách lạc quan, tự tại ấy bị bất ngờ “chùng xuống” chốc lát khi nghe chúng tôi thông báo lớp tù Đăk Glei ngày ấy tính đến 2014 còn được 2 người, nhưng cuối năm ấy nhà báo Đoàn Bá Từ ở Đà Nẵng đã quy tiên ở tuổi 95, nay thì chỉ còn duy nhất một. Ông Vĩnh trầm hẳn giọng: “Thế à? Anh Từ lúc ấy là “chuyên viên” làm báo tường, báo giấy trong tù ấy!... Hình như mới đây thôi…”.

Lớp tù đày ở Đăk Glei – Đăk Tô từ 1940 đến 1945 có đến trên dưới trăm rưỡi người, nay đã ra người thiên cổ cả, chỉ duy nhất còn một Nguyễn Trọng Vĩnh. Chúng tôi may mắn được diện kiến một nhân chứng lịch sử sống như vậy, rất cụ thể và rất sinh động, trước khi sẽ ngậm ngùi ngâm câu “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ!” (thơ Vũ Đình Liên)…

  Tạ Văn Sỹ

   

Các tin khác

  • Gỡ “điểm nghẽn” để thúc đẩy phát triển
  • Chùm ảnh: Xanh mát giữa nắng tháng Ba
  • “Điểm tựa” của làng
  • Đam mê với sản phẩm OCOP
  • Chùm ảnh: Người Gia Rai gìn giữ nghề dệt truyền thống
  • Trồng dâu tây trên đỉnh Đăk Chum I
  • Chùm ảnh: Phụ nữ Ba Na bên sông Đăk Bla
  • Người Xơ Đăng đồng lòng bảo vệ “Quốc bảo”
  • Người làm thuyền composite ở Lung Leng
  • Chắp cánh ước mơ cho thế hệ tương lai
Gửi bình luận của bạn
   
Đang xử lý

Tin Mới Nhất

  • Xã Diên Bình: Rác thải ven Quốc lộ 14 đã được thu dọn
  • Thêm một nạn nhân tử vong trong vụ nổ đầu đạn ở huyện Đăk Hà
  • Gỡ “điểm nghẽn” để thúc đẩy phát triển
  • Nêu gương trong học tập và làm theo Bác
  • Dưới mặt đất hiền lành - Bài 3: Để mặt đất trở lại hiền hòa
  • Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác đưa người đi xuất khẩu lao động
  • Hội nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh khóa X, nhiệm kỳ 2019-2024
  • Chương trình “Tháng Ba biên giới” tại xã Đăk Xú

Chùm ảnh

Kon Tum qua ảnh

Kon Tum qua ảnh

Kon Tum qua ảnh

Kon Tum qua ảnh

Kon Tum qua ảnh

Ghi chép - Phóng sự

  • Gỡ “điểm nghẽn” để thúc đẩy phát triển
  • Chùm ảnh: Xanh mát giữa nắng tháng Ba
  • “Điểm tựa” của làng
  • Đam mê với sản phẩm OCOP

Đất & Người Kon Tum

  • Độc đáo “hơ gọ” của người Xơ Đăng
  • Rong ruổi trên hành trình đến với các thôn làng, một lần, tôi được bà con Xơ Đăng ở làng Đăk Tăng (xã Đăk Tăng, huyện Kon Plông) chiêu đãi món “hơ gọ”- tức nõn chuối nấu thịt gác bếp. Dù chỉ một lần thưởng thức, nhưng món ăn độc đáo ấy đã để lại trong tôi những dư vị khó quên.
  • Nghệ nhân nặng lòng với văn hóa dân gian
  • Lớp học đàn t’rưng bên cầu Kon Klor
  • Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam
  • Khuyến nông - Khuyến lâm
Thông tin cần biết
  • Tỉ giá
  • Chứng khoán
  • Giá vàng
  • Kết quả xổ số
  • Thời tiết
  • Lịch cúp điện
  • Lao động việc làm
  • Thời sự - Chính trị
  • Kinh tế
  • Xã hội
  • Văn hóa - Thể thao - Du lịch
  • Pháp luật & Đời sống
  • Đất & Người Kon Tum
  • Tòa soạn & Bạn đọc
Báo Kon Tum điện tử
• Tổng Biên tập: Nguyễn Mạnh Hồng
• Phó tổng Biên tập: Phạm Minh Bảo, Nguyễn Thị Liễu Hạnh
• Tòa soạn: 281 Thi Sách, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum
• Điện thoại: 0260 3862531; Email: toasoanbaokontum@gmail.com
• Giấy phép số: 460/GP-BTTTT, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 06/9/2022
Liên hệ tòa soạn
Thông báo bảng giá quảng cáo mới
Developed by