Cơ hội cho nghề truyền thống
Từ ngàn xưa đến nay, dù có lúc thăng lúc trầm, nhưng nhiều nghề thủ công truyền thống vẫn lưu truyền trong cộng đồng các DTTS. Và những năm gần đây, với sự quan tâm từ Nhà nước, những nghề truyền thống ấy đang dần được phục hồi, phát huy giá trị kinh tế và văn hóa.
Của xưa còn lại
Trời đang tiết thu. Rừng cây xung quanh xanh biếc. Trên những đỉnh núi cao, màn sương màu trắng đục lờ lững quấn quanh như những chiếc khăn voan mềm mại, mờ ảo.
Trong ngôi nhà sàn ở góc làng Pu Tá (xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông), ông A Hình- một thợ rèn được dân làng quý trọng- chậm rãi kể về thời hoàng kim của nghề rèn. Bếp lửa đặt giữa nhà thỉnh thoảng bùng lên, nổ lép bép, bắn ra những chùm hoa lửa.
Dù bây giờ không còn ở thời “hoàng kim”, bởi bà con có thể mua dao, cuốc, liềm ở chợ một cách dễ dàng, nhưng nghề rèn vẫn được những người như ông A Hình âm thầm gìn giữ.
Cho nên, dù vào những ngày gian khó nhất, đâu đó dưới tán rừng, vẫn luôn có những lò rèn đang sáng lửa, với tiếng búa chắc nịch, tiếng bễ thổi gió ù ù và những tấm lưng trần đẫm mồ hôi.
Tuy vậy, bụng ông A Hình vẫn âm ỉ nỗi lo nghề rèn mai một, bởi số người biết rèn đang hao hụt dần, trong khi những người kế cận ngày càng ít, vì lớp trẻ bây giờ không mấy mặn mà với cái nghề nhọc nhằn này.
|
Không chỉ nghề rèn, mà từ ngàn xưa đến nay, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, các DTTS tại chỗ ở tỉnh Kon Tum (gồm Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, Giẻ Triêng, Hrê, Brâu và Rơ Măm) đã hình thành những nghề thủ công truyền thống rất độc đáo, như dệt thổ cẩm, đan lát, làm rượu cần, chế tác nhạc cụ truyền thống, rèn, gốm, tạc tượng, đẽo thuyền độc mộc, làm nỏ.
Với tài trí sáng tạo, những bàn tay khéo léo, các thợ “làng” đã làm ra những sản phẩm thủ công phục vụ lao động sản xuất, sinh hoạt của đồng bào. Vì vậy, chúng vừa thực dụng bởi có giá trị kinh tế, vừa tinh xảo, có giá trị thẩm mỹ, thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo, đặc trưng riêng của các dân tộc.
Dù có lúc thăng lúc trầm, nhưng nhiều nghề thủ công truyền thống vẫn được bà con tự phát và tự giác gìn giữ, lưu truyền bằng nhiều cách. Và trong cộng đồng các DTTS vẫn luôn có những người biết dệt, biết rèn, tạc tượng, hay đan lát, dù ít ỏi.
Nhưng như thế là chưa đủ!
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, nghề thủ công truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một. Phần do tác động từ cuộc sống hiện đại, phần do nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên dùng để duy trì thực hành nghề thủ công truyền thống ngày càng khan hiếm.
Mặt khác, việc giữ gìn, phát huy và phát triển nghề thủ công truyền thống còn chưa thực sự bền vững, do đa số người biết nghề đã già, trong khi việc trao truyền cho lớp trẻ về kỹ năng, kỹ thuật thực hành nghề thủ công truyền thống gặp nhiều khó khăn.
Cơ hội cho nghề truyền thống
Rất đáng mừng là những năm gần đây, chính quyền các cấp và ngành chức năng trên địa bàn tỉnh đã có sự quan tâm, vào cuộc tích cực trong việc bảo tồn và phát triển nghề truyền thống của các DTTS tại chỗ.
Trong đó, đem lại hiệu quả nhất là Đề án “Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống của các DTTS tại chỗ trên địa bàn tỉnh Kon Tum” giai đoạn 2017-2020.
Sau 4 năm triển khai đề án, với hàng loạt giải pháp cụ thể, bước đầu đã sưu tầm, lưu giữ bí quyết nghề nghiệp của các nghề truyền thống. Nhiều già làng, người uy tín, trưởng thôn được vận động, giải thích nên đã tích cực tham gia bảo tồn nghề truyền thống. Một số nghề có nguy cơ mai một được hỗ trợ phương tiện, nguyên liệu để phục hồi.
Chính quyền các cấp và ngành chức năng đã hỗ trợ một số sản phẩm của nghề truyền thống tham gia thị trường, như dệt thổ cẩm, đan lát, làm rượu cần, chế tác nhạc cụ truyền thống.
|
Nhiều lớp đào tạo nghề truyền thống cho lớp trẻ được mở ngay tại thôn, làng. Vì vậy, theo báo cáo của UBND tỉnh, số người biết làm nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh đã tăng từ 2.220 người (năm 2017) lên 12.170 người (năm 2020).
Một tin vui là tháng 7/2022, UBND tỉnh đã ban hành Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị nghề truyền thống của các DTTS tại chỗ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu đặt ra là tiếp tục khôi phục, bảo tồn, lưu giữ bí quyết nghề nghiệp 9 nghề truyền thống, gồm dệt thổ cẩm, đan lát, làm rượu cần, chế tác nhạc cụ truyền thống, rèn, gốm, tạc tượng, đẽo thuyền độc mộc, làm nỏ.
Đáng chú ý là Đề án xác định đẩy mạnh thương mại hóa đối với 4 nghề khá phổ biến hiện nay là dệt thổ cẩm, đan lát, làm rượu cần, chế tác nhạc cụ âm nhạc truyền thống, góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào DTTS tại chỗ.
Theo UBND tỉnh, Đề án sẽ đem lại cơ hội để các nghề truyền thống vượt qua khó khăn, phát huy giá trị, từ đó tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Tuy nhiên, để Đề án thực sự phát huy hiệu quả, nhiều ý kiến cho rằng, cần có những giải pháp cụ thể. Trong đó, tổ chức tốt công tác dạy nghề cộng đồng tại thôn (làng), đảm bảo 7 DTTS tại chỗ đều có lực lượng thành thạo nghề truyền thống, nhất là thanh niên, lao động trẻ trên địa bàn.
Quy hoạch vùng nguyên liệu đảm bảo phục vụ bền vững sản xuất nghề truyền thống. Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của nghề truyền thống thông qua việc xây dựng và phát triển các điểm trưng bày, giới thiệu, ký gửi sản phẩm, gắn với các điểm tham quan du lịch.
Về lâu dài, cần xây dựng hạ tầng, không gian hoạt động nghề truyền thống, đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị nghề truyền thống. Từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm nghề truyền thống, gắn với hình ảnh văn hóa - du lịch đặc trưng của tỉnh.
Có thể, với những người như ông A Hình, rất khó để yêu cầu họ gọi đúng tên đề án, hay nói hết ý nghĩa của những giải pháp mà đề án nêu ra, nhưng họ hiểu rất rõ rằng, đề án sẽ là động lực để nghề truyền thống “sống lại” mạnh mẽ.
Tôi tin rằng ông A Hình sẽ rất vui khi biết tin này. Tôi cũng hy vọng đêm đêm, bên bếp lửa nơi rừng núi Măng Ri sẽ không còn tiếng thở dài.
Hồng Lam