Ngày Bảy tháng Năm
Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn tự hào rằng, trong dòng họ mình có tới 2 chiến sĩ Điện Biên và 3 dân công hỏa tuyến phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bây giờ, các cụ đều đã thành người thiên cổ, nhưng lòng tự hào ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi.
Với niềm tự hào ấy, mỗi lần đọc những câu thơ mang âm hưởng hào hùng trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu, tôi lại như thấy những ông, những bác, chú, cô của mình trong đoàn quân “Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non” suốt 56 ngày đêm mà “gan không núng, chí không mòn”.
Để “rực trời đất Điện Biên toàn thắng” vào chiều 7/5/1954!
Vì vậy, khi vào Kon Tum lập nghiệp, tôi vui vô cùng khi được tiếp xúc với những chiến sĩ Điện Biên ít ỏi còn sống.
Như cụ Vũ Hữu Như, người được đào tạo kỹ thuật pháo binh ở Trung Quốc, Liên Xô. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cụ là đại đội trưởng đại đội 4 pháo binh, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 45, Sư đoàn 351.
Như cụ Đỗ Trọng Hòa, người tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ trong đội hình Tiểu đoàn công binh 316 tham gia đánh đồi A1, C1, C2. Và cụ là 1 trong hơn 100 cán bộ, chiến sĩ được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại đồi Him Lam sau giải phóng Điện Biên 2 ngày.
Hay cụ Đinh Thanh Cát, tham gia Chiến dịch Điện Biên phủ khi 22 tuổi, với vai trò y tá trưởng của Đội vệ sinh phòng dịch thuộc Sư đoàn 320. Cụ cùng đồng đội được cử xuống trạm cấp cứu ở sân bay Mường Thanh hơn 20 ngày để cứu chữa thương, bệnh binh đánh đồi A1.
Trong những câu chuyện của các cụ, tôi đã cố hình dung ra con đường đầy chông gai, máu lửa nhưng cũng rất đỗi tự hào mà ngày xưa các ông, chú bác, cô cậu của mình đã đi.
Bây giờ thì hầu hết các cụ đã là người thiên cổ, nhưng những câu chuyện kể của các cụ vẫn lưu mãi trong ký ức một kẻ hậu sinh, luôn mang trong mình lòng tự hào là con cháu của chiến sĩ Điện Biên.
|
Cũng trong một lần trò chuyện, tôi từng nghe các cụ nhận định rằng, để phối hợp với Điện Biên Phủ, đã có nhiều chiến dịch được quân ta mở trên khắp các chiến trường, trong đó, tại chiến trường Kon Tum đã có những chiến thắng vang dội, có ý nghĩa quan trọng chia lửa với mặt trận chính- Điện Biên Phủ.
Được sự gợi ý từ các cụ, tôi đã tìm kiếm các tư liệu lịch sử về chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 tại Kon Tum. Và tôi nhận ra rằng, vai trò “chia lửa” của Tây Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng với mặt trận Điện Biên Phủ vẫn chưa được tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá đúng.
Một lần ra Điện Biên, thăm Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tôi tìm thấy tư liệu về Kon Tum trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954. Theo đó, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Tổng quân ủy, Liên khu ủy khu V và Đảng ủy tư lệnh Liên khu quyết định chọn Đông Bắc Kon Tum là hướng chính trong kế hoạch tấn công lên Tây Nguyên Đông Xuân 1953-1954.
Mục tiêu của chiến dịch này là kiểm soát được thị xã Kon Tum và một số vị trí chiến lược quan trọng ở Bắc Tây Nguyên; tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; buộc Navarre phải bỏ dở cuộc hành quân Át-lăng, rút lực lượng lên ứng cứu cho Tây Nguyên khiến kế hoạch tập trung binh lực của Pháp bị phá vỡ, phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính Điện Biên Phủ.
23 giờ 30 phút ngày 27/1/1954, lúc bộ đội ở Điện Biên Phủ đang kéo pháo ra, thì tiếng súng cũng nổ gìòn giã ở chiến trường Kon Tum. Chủ lực ta nổ súng tấn công Măng Đen, Măng Bút, Kon Praih.
Chiến thắng Măng Đen, Măng Bút, Kon Praih làm cho hệ thống phòng thủ Đông Bắc Kon Tum của địch sụp đổ hoàn toàn. Trên các hướng khác, quân ta cũng đồng loạt tấn công địch, giải phóng tuyến Đăk Tô, Đăk Glei, Đăk Hà.
Ngày 7/2/1954, ta tiến về giải phóng thị xã Kon Tum và truy kích cánh quân địch chạy về Plâyku. 22 ngày chiến đấu anh dũng ở phía Bắc Tây Nguyên, ta tiêu diệt 2.600 tên địch, thu trên 1.000 vũ khí các loại, 150 tấn đạn, giải phóng toàn bộ tỉnh Kon Tum rộng 14.000km2 gồm 20 vạn dân. Vùng giải phóng giáp giới 3 tỉnh tự do Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và khu giải phóng Hạ Lào.
Chiến thắng Kon Tum là chiến thắng lớn đầu tiên trên chiến trường miền Nam, đánh dấu bước tiến bộ mới của bộ đội chủ lực Liên khu 5.
Ngay sau chiến thắng Kon Tum, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi thư cho bộ đội nêu rõ: “Thắng lợi Kon Tum là một thắng lợi to lớn của ta trên chiến trường miền Nam, nó cũng là một trong những thắng lợi to lớn của ta trong mùa xuân này trên chiến trường toàn quốc”.
|
Sáng nay, 7/5/2022, trong nắng vàng rực rỡ, đài phát thanh đang phát bài hát Chiến thắng Điện Biên của cố nhạc sĩ Đỗ Nhuận, tôi ngồi đọc lại những câu chuyện mà mình lượm lặt được từ các cụ qua vài lần gặp gỡ.
Rồi sực nhớ ra, những câu chuyện ấy chưa bao giờ được kể một cách ồn ào, hay ở những lễ kỷ niệm hoành tráng. Mà chỉ được kể rì rầm trong mỗi lần gặp nhau của chiến sĩ Điện Biên.
Rì rầm thôi, nhưng làm cho người nghe nhớ mãi, và cảm thấy có trách nhiệm hơn với những gì mình đang được hưởng.
Cũng chính những câu chuyện được kể một cách rì rầm ấy khiến tôi suy nghĩ nhiều đến tranh cãi ồn ào gần đây về việc dạy và học môn Lịch sử.
Có thể nói, việc Lịch sử trở thành môn tự chọn trong chương trình trung học phổ thông mới, bắt đầu triển khai với lớp 10 từ năm học 2022-2023 đang trở thành tâm điểm của dư luận với nhiều ý kiến trái chiều.
Nhiều nhà giáo, chuyên gia giáo dục bày tỏ lo ngại khi Lịch sử trở thành môn tự chọn, học sinh sẽ “bỏ qua” môn học này, từ đó dẫn đến hệ lụy là học sinh không biết về lịch sử.
Cá nhân tôi đồng tình với ý kiến rằng cần thay đổi cách dạy lịch sử chứ không phải “gạch tên” môn Lịch sử. Và nên tăng cường cải thiện tình hình, khắc phục hạn chế để thúc đẩy môn Lịch sử hơn là chủ trương thay đổi bằng một phương thức hoàn toàn mới.
Cứ nghĩ đến hình ảnh những người lính Điện Biên chụm đầu bên nhau, rì rầm nhắc lại kỷ niệm máu lửa ở Điện Biên Phủ năm xưa, tôi lại thấy xót xa gấp nhiều lần khi nghĩ đến viễn cảnh học sinh sẽ “lơ ngơ” khi nói về chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Tôi không biết, có bao nhiêu người có suy nghĩ như mình. Nhưng tôi muốn nói rằng, chúng ta càng hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng, càng không được lãng quên lịch sử.
Và “những buổi ngày xưa” luôn cần được kể lại, không chỉ ở những lúc rì rầm nói chuyện của các cựu binh, mà còn phải ở trong sách sử, trong các lớp học, với những ánh mắt trong trẻo của các thế hệ học trò chứa đựng sự ham muốn tìm hiểu về lịch sử đất nước, về khí phách cha ông.
Từ những trang sách, sức mạnh của lịch sử đất nước không chỉ là ở tình tiết, mà còn ở ý nghĩa đem lại cho hậu thế tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc.
Hãy truyền cho các thế hệ hôm nay và mai sau lòng tự hào về lịch sử đất nước. Trong đó có ngày 7/5, từng gây “chấn động địa cầu” 68 năm về trước, với chiến thắng Điện Biên Phủ.
Hồng Lam