Nhà báo Đoàn Bá Từ - Cây bút thép giữa núi rừng Kon Tum
Hơn 10 năm trước, tôi có dịp gặp nhà báo Đoàn Bá Từ tại góc đường Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Lai, thành phố Đà Nẵng. Ông là cựu tù chính trị bị thực dân Pháp đày lên Kon Tum và từng làm chủ bút các tờ báo viết tay trong trại giam Đăk Glei và Đăk Tô giai đoạn 1940 - 1945.
|
Nhà báo Đoàn Bá Từ (1919-2014) sinh ra và lớn lên tại quận Hải Châu, Đà Nẵng. Ông hoạt động cách mạng từ sớm tại Đà Nẵng, với vai trò là người đứng bán sách ở hiệu sách Việt Quảng, do cụ Lê Văn Hiến lập ra năm 1936, gần sát chợ Hàn (nay là số 112 đường Bạch Đằng). Đây là cơ sở phát hành sách báo và truyền bá tư tưởng cách mạng đầu tiên tại miền Trung thuộc Xứ ủy Trung kỳ và cũng là nơi lui tới của nhiều nhà hoạt động lỗi lạc như Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Phan Thanh, Bùi San và nhiều đồng chí khác. Ở hiệu sách Việt Quảng, Đoàn Bá Từ bắt đầu cầm bút và viết những bài báo đầu tiên cho tờ Đông Pháp, Tin Mới và đến năm 1938, ông được tờ Tin Mới cấp thẻ hành nghề với chức danh đặc phái viên tại Đà Nẵng. Ông cho biết: “Hồi đó, hiệu sách Việt Quảng có khá nhiều sách báo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt như tờ Notre Voix (Tiếng nói chúng ta), Le Travail (Lao động); En Avant (Tiến lên) Demain (Ngày mai) hay tờ Dân chúng, Tin tức…”.
Đầu năm 1940, chính phủ Pestain lên cầm quyền, Mặt trận Bình dân Pháp tan rã và kéo theo là các báo tiến bộ lần lượt bị đóng cửa. Tháng 6/1940, Đoàn Bá Từ bị bắt, giam tại xà lim mật thám Pháp tại Đà Nẵng, cho đến tháng 7/1940, ông bị đày lên Kon Tum, bắt đầu những ngày tháng lao tù kéo dài 5 năm tại trạm giam Đăk Glei rồi Đăk Tô.
Đăk Glei nằm trên dãy Trường Sơn, có độ cao trên 1.000m, xung quanh chỉ có núi rừng trùng điệp như bức tường thành khổng lồ ngăn cách với Đồng Bằng. Tại đây, thực dân Pháp xây dựng một đồn binh vào năm 1935. Trại giam Đăk Glei được xây cách đồn khoảng 200m, công trình được làm bằng gỗ, tre, nứa, mái lợp tranh, “Xung quanh trại có hàng rào dây kẽm gai chắc chắn và cắm chông dày đặc. Trại có diện tích rộng, chứa khoảng 150 người, hai góc trại có hai trạm gác”. Tại đây, Đoàn Bá Từ cùng với anh em tù chính trị đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, buộc thực dân Pháp phải nhượng bộ. “Đồn trưởng Bê-li-ô cho phép những người tù được tự do đi lại, trồng rau, nuôi gà, nuôi heo và còn cho dựng một ngôi nhà làm nơi sinh hoạt, văn nghệ, diễn kịch và viết báo. Mặt trước ngôi nhà được trang trí một ngôi sao năm cánh rất to”.
|
|
Tính đến đầu năm 1941, trại giam Đăk Glei đã có 43 người tù bị đưa lên đây giam giữ. Tháng 8/1941, Đoàn Bá Từ cùng với Lê Văn Hiến, Bùi Sỹ Viện, Hà Thế Hạnh… đã tổ chức viết bài và phát hành tờ báo đầu tiên, lấy tên Lazaret, được viết tay trên giấy manh với 6 trang tiếng Việt và phụ trương (gồm 2 trang) tiếng Pháp. Đoàn Bá Từ là người viết chữ đẹp nên ngoài bài viết còn được phân công phụ trách trình bày bằng một cây bút tự chế từ ống thuốc tiêm 20cc trong suốt 4 năm trời ở “Tòa soạn”. Ông kể: “Ống thuốc được cưa một đầu để rót mực xạ, cắm vào ống trúc làm cán bút, đầu kia đốt trong lửa cồn trên 90 độ kéo chảy ra rồi uốn cong thành ngòi bút với một lỗ nhỏ cho mực ra đều đặn”. Trong cuốn sổ nhỏ chép lại những bài viết bằng cây bút ấy vẫn còn được ông lưu giữ như một kỷ vật đó là cuốn nhật ký với tựa đề “Đi đày”. Cuối năm 1941, Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ bị đưa lên Trại giam Đăk Glei đã đề nghị bỏ 2 trang tiếng Pháp và thay măng - sét báo bằng tiếng Việt và đặt tên là Chàng Làng - tên một loại chim chào mào, thường hót ngoài cửa sổ của nhà giam.
Sau khi Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ vượt ngục, tháng 6/1942 toàn bộ tù chính trị giam tại Đăk Glei chuyển về trại giam Đăk Tô (nay là xã Kon Đào). Tại đây, Đoàn Bá Từ cùng với “Ban tòa soạn” tiếp tục cho ra đời tờ báo với măng - sét mang tên “Yên Chí”. Tháng 2/1943, Huỳnh Ngọc Huệ, Hà Thế Hạnh, Chu Huy Mân và Nguyễn Duy Trinh tổ chức vượt ngục, tờ báo Yên Chí lại đổi tên là “An Trí”. Số báo cuối cùng là kỳ phát hành Xuân Ất Dậu năm 1945 với một cuộc họp của cộng tác viên hết sức linh đình ngay trong tù, do chủ bút Lê Văn Hiến chủ trì trong ngày mùng 2 Tết, đã đánh giá ảnh hưởng của tờ báo và góp ý rất sôi động.
5 năm trong tù (1940-1945), Đoàn Bá Từ là một trong những người chủ lực đã cùng viết, chép tay và cùng trình bày hàng trăm trang báo. Sau một ngày lao động mệt nhọc, khi cai tù đã làm xong việc điểm danh, cánh cửa trại giam đóng lại, chốn lao tù như bừng lên một sắc thái khác. Một người đọc to cho cả Trại nghe các bài báo, với nhiều mục phong phú như bình luận, thơ, phóng sự, chuyện vui và mục điểm “Nhân vật Dak Gley - Dak To”. Trong những bài báo viết bằng tiếng Việt và tiếng Pháp của ông lúc bấy giờ chứa chấp sự phẫn uất của một người cách mạng đầy nhiệt huyết nhưng bị giam cầm nơi chốn rừng sâu thăm thẳm. Trong một bức thư gửi về cho bạn Định vào tháng 7/1941 ông tâm sự: “Trên chuỗi ngày dài đằng đẳng ấy, bị nhốt trong cảnh núi rậm, rừng dày, Mai thấy như lạc lối đến chốn nước non xa lạ, mà lòng chỉ nhịp với hơi thở của ngàn cây, và ý chỉ trao cho góc đời chật hẹp. Mai nhớ các bạn: Bên xa kia có còn chăng hình ảnh của thằng bạn yêu đời và tươi cười trước mọi cảnh?” .
Sau Tết Ất Dậu (năm 1945), Đoàn Bá Từ, Nguyễn Trọng Vĩnh và Nguyễn Trường Châu có lệnh thả, nhưng ông lại bị chính quyền thực dân Pháp đưa đi đày tại Đà Lạt. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ông mới được thả tự do về lại quê hương. Sau khi ra tù Đoàn Bá Từ vẫn làm nhiệm vụ làm báo ở báo Cứu Quốc (1947-1948); Thông tấn xã Liên khu V (1953-1955), rồi Thông tấn xã Việt Nam (1962-1975). Sau năm 1975, ông làm chuyên viên biên tập Đài Phát thanh Quảng Nam - Đà Nẵng cho đến khi nghỉ hưu năm 1982.
Phạm Bình Vương