“Pô Kô dậy sóng”
50 năm trôi qua, những người từng cầm súng chiến đấu trong chiến dịch Đăk Tô - Tân Cảnh đã ở tuổi xưa nay hiếm. Giờ đây, dù đã quên đi nhiều thứ nhưng những ký ức hào hùng, về những tháng ngày oanh liệt, về tinh thần đoàn kết, chung lòng của quân ta vẫn vẹn nguyên trong tâm trí của họ. Chỉ cần nhắc lại, những người hùng năm xưa lại kể rành mạch với niềm tự hào khôn xiết.
Thực thi chiến lược “chiến tranh cục bộ”, địch xem Kon Tum là tiền đồn của vùng 2 chiến thuật, là địa bàn xung yếu của Tây Nguyên, mà Đăk Tô là lá chắn ở phía Bắc. Do đó, từ năm 1957 đến năm 1972, Mỹ ngụy đã cho xây dựng tại Đăk Tô - Tân Cảnh một hệ thống phòng ngự kiên cố.
Ngoài ra, chúng còn tập trung lực lượng tổng hợp: nghĩa quân, dân vệ, cảnh sát, thám báo, biệt kích, cán bộ bình định, phượng hoàng..., ra sức kẹp chặt dân để thực thi chương trình bình định nông thôn.
Trước tình hình trên, thực hiện chủ trương chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Khu ủy V, Tỉnh ủy Kon Tum đã quyết định mở chiến dịch Xuân - Hè 1972 nhằm "Tiêu diệt địch, giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Pleiku; có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng phía Tây Pleiku, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ".
Qua nghiên cứu thế bố trí phòng ngự của địch ở Đăk Tô - Tân Cảnh, Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận thấy địch tập trung sức mạnh về hướng Tây và hướng Bắc; hướng Đông (nơi có sở chỉ huy cụm của địch nằm trong căn cứ 42) lại bị bỏ trống, thế che đỡ yếu. Từ đó, việc tập trung lực lượng đánh vào điểm yếu sơ hở của địch được Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định và là mục tiêu trọng tâm của cuộc tấn công.
|
Thời điểm đó, ông A Tủi - hiện ở khối 5, thị trấn Đăk Tô, là bộ đội địa phương. Năm 1971, với quyết tâm “Trường Sơn chuyển mình, Pô Kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng quê hương”, ông và đồng đội đều chuẩn bị sẵn sàng tham gia trận chiến ác liệt. “Chúng tôi biết rằng, trận chiến này, sẽ khó có cơ hội trở về. Thế nhưng, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, anh em đồng đội giơ cao tay súng, hô to: quyết tâm, quyết tâm, quyết tâm”- ông A Tủi nhớ lại.
Cũng như ông A Tủi, là bộ đội địa phương từ năm 1969, sau 2 năm thực hiện nhiệm vụ củng cố lực lượng cũng như chuẩn bị nguồn lực cho chiến dịch, năm 1971, ông A Nhoar - hiện sống ở khối 5, thị trấn Đăk Tô cũng theo lệnh, cùng với ông A Tủi và anh em đồng đội đi đường giao liên ra sân bay Phượng Hoàng tập kết dần dần. Sau khi giấu quân tại rừng già, lực lượng tiếp tục hành quân ra hướng Ngọc Tụ để nắm tình hình địch.
Nghe chỉ huy thông tin, Trung đoàn 66 được tăng cường thêm Tiểu đoàn 37 đặc công nằm trong đội hình chiến đấu Sư đoàn 2, cùng với một số lớn binh khí kỹ thuật, có cả xe tăng và pháo binh, được điều chuyển từ phía Tây sang phía Đông để tấn công vào căn cứ 42, các ông cùng đơn vị dũng cảm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cho quân chủ lực, làm đường cho xe tăng vào.
“Chúng tôi mở đường và giữ đường cho xe tăng. Lúc đó, máy bay địch như chuồn chuồn lượn trên bầu trời, chúng thả bom, bắn dữ dội. Dẫu vậy, chúng tôi vẫn không rời mục tiêu, khi địch bắn thì nằm dưới hầm, lúc chúng ngưng thì ngóc đầu lên làm nhiệm vụ, cố gắng bảo vệ đường cho xe tăng. Ở đây, nhiều anh em, đồng đội đã anh dũng hy sinh”- ông A Tủi xúc động nhớ lại.
Có lệnh cấp trên, cuối tháng 3/1972, ông Nhoar, ông Tủi được nhập vào đội hình Tiểu đoàn 304, thực hiện đánh vu hồi để thu hút lực lượng của địch. Đêm 23 rạng sáng 24/4/1972, khi lực lượng địch đang tập trung đánh quân ta ở phía Tây và phía Bắc, từ phía Đông, Trung đoàn 66 và Tiểu đoàn 37 đặc công bất ngờ đột phá trận địa phòng ngự của địch. Những đơn vị địch nằm phía Đông căn cứ 42 nhanh chóng bị lực lượng của ta quét sạch. Pháo của ta liên tục bắn phá các mục tiêu bên trong căn cứ. Ông Nhoar nói rằng, lúc đó, Đăk Tô như chảo lửa, kho đạn địch nổ tung, kho xăng bốc cháy, khu trung tâm thông tin bị đạn pháo ta bắn sụp đổ. Các công sự, lô cốt, boong- ke án ngữ trên các hướng cửa mở bị đạn B72 của lực lượng ta bắn sập. Trong khói lửa mù trời, quân ta áp sát vào hàng rào căn cứ địch. Từ phía sau, xe tăng xuất kích tiến ra đường 14, vượt qua quận lỵ Đăk Tô, lao nhanh về căn cứ 42.
Ông Tủi nhớ như in, rạng sáng 24/4, pháo lệnh của ta xuất hiện. Từ các hướng, quân ta nhất tề xung phong. Đạn pháo xe tăng, đạn B40 và thủ pháo của ta phá sập từng lô cốt của địch. Xe tăng ta tiến sâu vào bên trong chà nát nhiều ụ súng địch kháng cự. Lực lượng ta nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa. Đúng 11h trưa ngày 24/4, ta hoàn toàn làm chủ căn cứ 42.
“Thời điểm các chiến sĩ ta cắm cờ tung bay trên đỉnh trung tâm căn cứ địch, báo tin chiến thắng, chúng tôi đã khóc. Khóc vì mừng vui chiến thắng và cũng khóc vì thương các anh em, đồng đội đã nằm lại với đất mẹ. Ngày trước, tên cố vẫn Mỹ từng huênh hoang tuyên bố: “Khi nào nước sông Pô Kô chảy ngược thì Việt Cộng mới đánh được Tân Cảnh”. Pô Kô dậy sóng và đã quét sạch quân thù, chúng ta đã đáp trả sự huênh hoang bằng một chiến thắng hào hùng”- ông A Tủi nói với giọng đầy tự hào.
Ngày 24/4 đã trở thành ngày lịch sử. Nhớ lại thời thanh xuân, ông A Nhoar, ông A Tủi đều cảm thấy tự hào vì được chiến đấu, vì được quét tan quân thù.
50 năm trôi qua, dòng Pô Kô yên ả bồi đắp ruộng vườn, “vành đai thép” ngày nào cũng hồi sinh và phát triển từng ngày. Đứng trước tượng đài Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh, hai ông A Nhoar, A Tủi lại rưng rưng nước mắt: Chúng tôi may mắn được sống sót trở về và rất thương đồng đội đã nằm lại mãi với đất mẹ. Chính ý chí quyết tâm của các anh, chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã làm nên một huyền thoại để chúng ta có được Đăk Tô vững mạnh như hôm nay.
Hoài Tiến